Chúng tôi là Kỹ Sư Việt Nam

KS2

Main Menu

  • Tin Tức
  • Nhật Bản
  • Việc Làm
  • Giải Trí
  • Download

Search

Search

Thứ Sáu, 13 tháng 8, 2010

Karaoke - CHANGE THE WORLD


Chào mừng ngài Yoshida đến thăm, lớp mình đã chuẩn bị sẵn bài hát "CHANGE THE WORLD"  và cũng để nhìn lại những đoạn đường mà mọi người đã cố gắng học tập trong hơn 1 năm vừa qua. Mọi người  cùng hát nào....



Lời bài hát:


I WANT TO CHANGE THE WORLD

疾風を駆け抜けて
何も恐れずにいま勇気と 笑顔のカケラ抱いて

CHANGE MY MIND

情熱たやさずに

高鳴る未来へ手を伸ばせば 輝けるはずさ

IT'S WONDERLAND


灰色の空の彼方 何か置いてきた

君は迷いながら探し続ける

君の心震えてた 明日の見えない夜

何も信じられず耳を塞ぐ


君に出逢えたとき 本当の居場所見つけた

何気ない優しさがここにあって 僕等目覚める


I WANT TO CHANGE THE WORLD


二度と迷わない

君といる未来 形どれば 何処までも跳べるさ

CHANGE MY MIND

情熱たやさずに

知らない明日へ翼ひろげ 羽ばたけるはずさ

IT'S WONDERLAND


僕等は同じ世界を泳ぎ続けてる

互いの願いへ届く日まで

みんな同じ不安抱えて 支えあえるよ

立ち止まる瞬間に見つめてるこの場にいる

I WANT TO CHANGE THE WORLD


この手離さずに

見守る瞳を受け止めたら 何だって出来るはず

CHANGE MY MIND

孤独にさせない

みんなここにいる どんな事も突き抜けていこう

Tôi muốn thay đổi cả thế gian

Băng qua gió lốc , chẳng e ngại điều gì, ôm trong mình lòng dũng khí và gương mặt tươi cười

Thay đổi tâm trí tôi
Không để lửa nhiệt tình phải tắt, lòng rộn ràng
Nếu vuơn đến được tương lai, sẽ rục rỡ
Đó là một vùng đất diệu kỳ


Bạn vừa lang thang vừa kiếm tìm điều gì đó
Đã để lại ở vùng trời màu xám kia

Tim run rấy, một buổi đêm không có ngày mai
Bịt chặt tai mà chẳng tin vào bất kỳ điều gì

Khi tôi gặp bạn, là khi tôi thật sự tìm ra nơi ở của mình
Bừng tỉnh khi bắt gặp sự dịu dàng không chút toan tính

Tôi muốn thay đổi thế gian

Sẽ không lạc lối lần thứ hai
Nếu tương lai được cùng bên bạn trở thành hiện thực, tôi sẽ có thể lao đến bất cứ nơi đâu

Thay đổi tâm trí

Không để lửa nhiệt tình phải tắt

Mà giang rộng đôi cánh hướng đến ngày mai còn chưa biết
Đó là một vùng đất diệu kỳ

Anh vẫn đang tiếp tục lội qua biển cả thế gian
Cho đến ngày đến được với những điều mà mình cùng nhau mong ước

Mọi người đều có những nỗi bất an giống nhau, đều gặp phải
Anh đứng lại trong phút chốc, ở nơi đây, dõi mắt nhìn

Tôi muốn thay đổi thế gian

Bảo vệ đôi bàn tay này, không để lìa xa
Một khi đã nắm bắt được, điều gì cũng có thể
Thay đổi tâm trí
Sẽ không cô độc
Mọi người sẽ ở đây, sẽ cùng nhau chống chọi với bất kỳ điều gì
Đó là một vùng đất diệu kỳ
                          



Thứ Bảy, 7 tháng 8, 2010

Akio Nitori & ước mơ làm giàu người Nhật

Với mong muốn đem đến cho người Nhật một cuộc sống thoải mái và tiện nghi hơn, Akio Nitori đã bỏ ra hàng chục năm nghiên cứu thói quen sống và tiêu dùng của người Mỹ.



Akio Nitori, Chủ tịch tập đoàn Nitori, người xếp thứ 13 trong danh sách 40 người giàu nhất nước Nhật năm 2010, theo bình chọn của Tạp chí Forbes

Một chuyến đi đến Mỹ đã thay đổi cuộc đời của Akio Nitori và tương lai của ngành bán lẻ hàng nội thất Nhật. Đó là vào năm 1972, lúc bấy giờ, Nitori mới 27 tuổi, là chủ của 2 cửa hàng trang trí nội thất và đồ gia dụng tại đảo Hokkaido. Trong một chuyến đi thực nghiệm do một hiệp hội ngành trang trí nội thất tổ chức, ông đã có 1 tuần ở bang California (Mỹ), mua sắm và quan sát cách người Mỹ sinh sống.

Nitori nhận thấy rằng, không giống như những ngôi nhà chật hẹp ở Nhật, những ngôi nhà ở California không phải có 1 phòng tắm mà có tới 2 phòng, cùng với các phòng riêng làm nơi sinh hoạt của gia đình và khách đến chơi và có cả một hồ bơi ở sân sau. Người Mỹ thích trang trí nhà bằng các loại vải có nhiều màu sắc được phối hợp hài hòa, trong khi người Nhật cũng trang trí nhà với nhiều màu sắc nhưng rất lộn xộn, không theo quy luật nào. 
 
Đồ nội thất và gia dụng Mỹ được thiết kế nhằm làm cuộc sống của chủ sở hữu được thoải mái hơn, chứ không chỉ là để làm phồng túi tiền của các nhà sản xuất như ở Nhật. Và điều quan trọng hơn là người Mỹ chẳng tốn bao nhiêu khi sở hữu các mặt hàng tiện ích này, vì giá đồ nội thất và gia dụng tại Mỹ chỉ bằng 1/3 so với Nhật.

“Lúc đó, lần đầu tiên tôi mới hiểu được rằng, người Nhật “sống nghèo” như thế nào. Và tôi muốn thay đổi điều đó bằng cách giúp họ hưởng thụ một cuộc sống giàu có như người Mỹ”, Nitori nói.

Giá rẻ nhưng chất lượng



Hiện nay, Nitori là chuỗi siêu thị hàng trang trí nội thất và đồ dùng gia đình lớn nhất tại Nhật với doanh số bán tăng 17,3%, đạt 3,2 tỉ USD trong năm tài chính kết thúc vào tháng 2.2010. Và cho đến nay, những chuyến đi thăm nước Mỹ vẫn là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển của Hãng. Mỗi năm, Nitori đưa khoảng 800 nhân viên đến Mỹ tham quan các siêu thị trong hệ thống Wal-Mart, Target và những siêu thị khác để xem cách thức trình bày các gian hàng, kỹ thuật bán hàng, mẫu mã hàng hóa, chất liệu, màu sắc cũng như giá cả. Nitori cho biết: “Nước Mỹ vẫn luôn là người thầy của chúng tôi”.



Những việc làm đơn giản như vậy đã giúp Nitori đứng vững trong một môi trường khắc nghiệt vốn đã đẩy nhiều nhà bán lẻ truyền thống của Nhật vào cảnh phá sản. Tâm lý bất an của người tiêu dùng đã khiến cho doanh số bán ở các siêu thị và thương xá Nhật giảm xuống qua mỗi năm trong 13 năm qua, theo thống kê của các tổ chức trong ngành. Doanh số bán hàng nội thất và đồ gia dụng đã giảm 1,7% vào năm ngoái, xuống còn 4,8 tỉ USD, theo Hiệp hội Chuỗi Siêu thị Nhật.

Trong khi các nhà bán lẻ truyền thống đang chật vật xoay xở thì các chuỗi cửa hàng giá rẻ như Nitori, Shimamura, Fast Retailing (điều hành chuỗi cửa hàng thời trang Uniqlo) và Yamada Denki lại bành trướng rất nhanh. Những nhà bán lẻ này không chỉ đem đến cho người tiêu dùng các sản phẩm giá rẻ mà còn mạnh tay cắt giảm chi phí, chú trọng đến khả năng sinh lời và đặc biệt quan tâm đến thời trang và mẫu mã.



Chủ tịch Nitori (xếp thứ 13 trong danh sách 40 người giàu nhất nước Nhật năm 2010 theo bình chọn của Tạp chí Forbes) là người rất nhất quán, luôn nghĩ đến việc làm thế nào để giảm giá bán mà không gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Và ông luôn trung thành với tôn chỉ này trong hơn 20 năm qua.

Năm 2009, Nitori đã có tới 4 lần giảm mạnh giá bán. Thậm chí, một số sản phẩm của Nitori còn rẻ hơn sản phẩm cùng loại ở chuỗi siêu thị nội thất Ikea (Thụy Điển) tới 30%. Các mức giảm giá mạnh như vậy có thể là điều bình thường ở Mỹ và châu Âu, nhưng tại Nhật, điều này gần như là một cuộc cách mạng.

Người say mê những con số

Nitori là người không hề theo quy củ. Có tới 3/4 sản phẩm ông bán ra mang nhãn hiệu của Công ty (Nitori mua số lượng lớn hàng hóa từ các nhà sản xuất khác và dán nhãn của doanh nghiệp mình lên).

Hầu hết các sản phẩm của Nitori được sản xuất tại các nhà máy ở Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác. Đồng thời, Hãng cũng sở hữu 2 nhà máy tại Việt Nam và Indonesia. Tại 2 nhà máy này, Nitori sản xuất những mặt hàng mà Hãng cho rằng, các nhà máy bên ngoài sẽ không thể làm đạt theo tiêu chuẩn chất lượng đặt ra, đặc biệt là các sản phẩm như tủ, giường. 
 

“Không công ty nào lại đeo đuổi mô hình kinh doanh bán lẻ và sản xuất kép đến mức độ như Nitori”, Nozomi Moriya, chuyên gia tại ngân hàng đầu tư UBS (Thụy Sĩ), chuyên theo dõi hoạt động của Nitori, nhận định. Bà Moriya cho biết, việc sở hữu các nhà máy cho phép Nitori làm việc trực tiếp với các nhà cung cấp một cách dễ dàng hơn vì họ hiểu rõ hoạt động sản xuất của chính mình. Điều này giúp Nitori không phải thông qua các công ty thương mại mà mua trực tiếp từ các nhà máy và có thể giảm giá bán sản phẩm.

Nitori là một người say mê những con số. Ông luôn theo dõi những dữ kiện quan trọng đối với thành bại của Công ty như lượng khách hàng đến mua sắm, độ tuổi của mỗi siêu thị và nhân viên, số lượng đơn khiếu nại về chất lượng, lợi nhuận và doanh thu tính trên mỗi nhân viên. Và từ đó, ông đặt ra các chiến lược phù hợp.

Ông tin rằng có một độ tuổi lý tưởng cho các siêu thị và nhân viên. Ông luôn duy trì độ tuổi trung bình của các cửa hàng là 24 và cho đóng cửa những siêu thị đã quá già cỗi hoặc không còn khả năng thu hút đủ lượng khách hàng đến mua sắm. Ông cũng giữ độ tuổi trung bình của nhân viên trong khoảng 30-34. Lý do, theo ông, là “khi nhân viên ở độ tuổi quá trẻ, họ sẽ không có đủ kiến thức cũng như kinh nghiệm mà chúng tôi cần và cho dù chúng tôi có làm gì thì cũng không thể thay đổi họ như mình mong muốn. Sau tuổi 34, các nhân viên bắt đầu gặp các vấn đề về sức khỏe như xơ cứng động mạch, tăng cân… Vì thế, họ ít năng động hơn”. 
 

Cách thức của Nitori, tuy có vẻ kỳ quặc, nhưng hoàn toàn đúng luật vì luật pháp Nhật cho phép người sử dụng lao động cụ thể hóa giới hạn độ tuổi đối với những lao động được tuyển mới trong một số điều kiện cho phép. Và điều quan trọng là cách thức đó đã phát huy tác dụng. Doanh số bán và lợi nhuận hằng năm của Nitori luôn tăng trong 23 năm qua. Người mua vẫn luôn xếp hàng bên ngoài siêu thị Fuchu, ngoại ô Tokyo, chờ mở cửa. Ôtô cũng xếp hàng dài, chờ được vào bãi đỗ xe những ngày cuối tuần.


Nitori đã đạt được mục tiêu của mình. Đó là đem đến cho người Nhật một cuộc sống thoải mái. Ông cũng đã đưa được các sản phẩm có sự phối hợp màu sắc hài hòa vào các ngôi nhà của người Nhật và thậm chí ở một số lãnh thổ và quốc gia châu Á khác (Nitori có 5 siêu thị tại Đài Loan).

Tháp Tokyo Sky Tree- công trình cao nhất Nhật Bản

Công trình cao nhất Nhật Bản- tháp Tokyo Sky Tree- đang xây dựng ở trung tâm Tokyo, vừa được đánh dấu đạt mức 400 m vào Thứ Sáu, và tính đến trưa là 408 m, theo lời người điều hành cho biết.

Vẫn chưa hoàn thành: tháp Tokyo Sky Tree đang được xây dựng ở quận Sumida đã trở thành công trình cao nhất Nhật Bản.
 
Tháp truyền hình mới ở quận Sumida dự kiến sẽ cao 634 m vào mùa xuân tới, sau khi đã mở rộng cả phần ăng-ten. Nó sẽ được sử dụng chủ yếu như trung tâm phát sóng kĩ thuật số trên mặt đất. 



Công ty Tobu Tower Sky Tree còn cho biết những công việc của ngày thứ sáu đáng lẽ đã được làm vào thứ năm nhưng bị hoãn lại vì gió mạnh. 

Tháp Tokyo cao 333 m ở quận Minato là nơi phát sóng chương trình truyền hình và radio, đã giữ vị trí công trình cao nhất Nhật Bản trong suốt 52 năm qua. Nhưng vào tháng 3, Tokyo Sky Tree đã vượt qua nó.




Tất cả công việc xây dựng, bao gồm cả phần nội thất của tháp được mong đợi sẽ hoàn thành vào mùa đông năm 2011.

Thứ Năm, 22 tháng 7, 2010

Văn hóa của người Nhật - "Xin Lỗi"


Bạn làm gì khi phạm lỗi (謝罪) với người khác, hãy xem người Nhật làm điều đó như thế nào:



Thứ Tư, 21 tháng 7, 2010

Momofuku Ando - Cha đẻ của mỳ ăn liền

Mỳ ăn liền (instant noodle) được người Nhật coi là biểu tượng về nền văn hóa của đất nước mặt trời mọc. Trong một cuộc thăm dò, người dân Nhật Bản còn xếp phát minh này lên ngôi số Một, trên cả các phát minh lừng danh như karaoke, máy nghe nhạc Walkman, máy trò chơi Nintendo của người Nhật.

Mỳ ăn liền giờ đây đã trở thành loại thực phẩm tiện dụng nhất có bán rộng rãi trên toàn thế giới, từ nông thôn hẻo lánh cho tới đô thị phồn hoa ở mọi nước.


Nghe nói người Nga hiện nay cũng rất thích mỳ ăn liền, nhờ thế mấy doanh nhân người Việt ở Nga chuyên sản xuất mặt hàng này đã “trúng quả” lớn.

Trường hợp không có nước sôi, người ta vẫn có thể ăn sống loại mỳ này mà không sợ đau bụng. Chính vì thế mỳ ăn liền là loại thực phẩm tốt nhất dùng để cứu tế dân vùng lũ lụt.

Qua truyền hình, thường thấy cảnh máy bay lên thẳng của quân đội ta thả từng thùng mỳ bọc kín trong túi ni lông xuống cho đồng bào bị mắc kẹt trong nước lũ; mọi người cứ thế nhai sống mỳ ăn liền, thật tiện lợi biết bao. Bộ đội, công an ta đi công tác hoặc trực chiến trên núi cao rừng sâu bao giờ cũng mang theo dăm gói mỳ ăn liền thay cho lương khô.


Người giàu cũng không chê nó: các bà nhà ta đi nước ngoài công cán vì sợ không quen món ăn xứ người (hay vì tiết kiệm ngoại tệ?) thường mang theo cả thùng mỳ ăn liền, chẳng cần ra nhà hàng mà vẫn no bụng… Tóm lại, mỳ ăn liền là thực phẩm được tất cả mọi người không kể giàu nghèo đều thích.


Thế còn giá trị dinh dưỡng của mỳ ăn liền thì sao? Nếu sản xuất theo đúng tiêu chuẩn của công ty mỳ ăn liền Nissin nổi tiếng nhất thế giới thì bạn có thể ăn món này cả năm mà vẫn khỏe mạnh.

Năm 2004, ông Ando Chủ tịch công ty Nissin và Hội trưởng Hội Mỳ ăn liền toàn thế giới đến Thượng Hải theo kế hoạch 4 năm du hành khắp thế giới để nếm các loại mỳ ăn liền do thiên hạ sản xuất. Tại Thượng Hải và Nam Kinh, ông đã nếm hơn 300 loại mỳ ăn liền "made in China".

Khi đến chủ trì hội nghị thường niên của Hội nói trên (năm 2004 họp tại Thượng Hải), thấy ông đã 94 tuổi mà còn hồng hào khỏe mạnh, mọi người rất ngạc nhiên hỏi ông có bí quyết gì để sống lâu. Ando nói: “Tôi khỏe thế này là nhờ toàn chén mỳ ăn liền đấy”. 
 

Quá trình sáng chế mỳ ăn liền

Momofuku Ando là người Nhật gốc Trung Quốc, sinh năm 1910 tại Đài Loan, khi đó là thuộc địa của Nhật. Tên chữ Hán của ông là Ngô Bách Phúc, khi chuyển sang tiếng Nhật là An Đằng Bách Phúc.

Mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, Ando sống với ông bà; lớn lên cậu bé bắt đầu làm việc trong cửa hiệu bán vải lụa của ông nội tại thành phố Đài Nam, miền Nam đảo Đài Loan.
Năm 22 tuổi, Ando sử dụng tài sản thừa kế từ cha mẹ làm vốn mở một công ty kinh doanh sợi dệt. Hồi ấy, do ít người buôn hàng dệt kim nên công ty của ông có điều kiện ăn nên làm ra. Nhờ thế, một năm sau, Ando đã đủ vốn sang Nhật Bản mở công ty “Nhật Đông Thương hội” ở Osaka, thành phố lớn thứ hai nước này, chuyên kinh doanh hàng dệt kim và thiết bị máy móc. Đồng thời ông cũng theo học khoa kinh tế của trường đại học Ritsumeikan ở đây. 


Cuối thời gian chiến tranh Thái Bình Dương, các đợt ném bom rải thảm của quân đội Đồng Minh đã san bằng thành gạch vụn hầu như tất cả các đô thị và cơ sở công nghiệp ở Nhật; trong đó có nhà máy và cửa hiệu của Ando.

Nền kinh tế cả nước bị tàn phá thảm hại chưa từng thấy, hàng chục triệu người không có việc làm; lương thực và năng lượng như điện, than, dầu đều vô cùng khan hiếm. Không chịu bó tay chờ sự cứu tế của người Mỹ, Momofuku Ando chuyển sang kinh doanh hàng bách hóa và thực phẩm.

Năm 1948, ông lập công ty thực phẩm Nissin. Đầu tiên công ty này sản xuất muối ăn theo một cách đơn giản: lát các tấm tôn xuống bờ biển làm thành ruộng muối, lấy nước thủy triều vào ruộng rồi phơi nắng cho nước bốc hơi, còn lại muối trên các tấm tôn. Cũng trong thời gian ấy ông chính thức xin nhập quốc tịch Nhật Bản, trở thành công dân nước này. 
 


Hồi ấy, Nhật rất thiếu lương thực, hầu hết ăn bột mỳ do Mỹ viện trợ, tuy người Nhật quen ăn gạo. Chính quyền Nhật đề chủ trương dùng bột mỳ làm thành bánh mỳ và phát động phong trào khuyến khích toàn dân làm và ăn bánh mỳ theo kiểu người Âu Mỹ cho nhanh và tiện, đỡ phải đun nấu tốn thời gian và nhiên liệu, là thứ hồi đó rất khan hiếm.

Ando không tán thành cách làm ấy, ông cho rằng nên khuyến khích dùng bột mỳ làm thành một dạng mỳ sợi ăn liền, vì dân Nhật hàng ngàn năm nay đã quen ăn gạo và mỳ sợi rồi. Những khi thấy người ta xếp hàng dài ngoài phố trong băng tuyết để chờ mua một tô mì nóng, Ando cứ băn khoăn với ý nghĩ nếu có thể làm ra một loại mỳ sợi chẳng cần đun nấu lâu, chỉ cần đổ nước sôi vào là ăn được ngay thì tiện biết bao. 
 

Ông gặp chính quyền địa phương và nêu ra đề nghị này. Nhưng chính quyền lại nói họ chẳng làm gì được, tốt nhất là ông hãy tự thực hiện ý tưởng ấy. Song vì thiếu vốn nên Ando không biết xoay xở ra sao.

Sau đó ông được bạn bè mời tham gia lập một Hợp tác xã (HTX) Tín dụng. Do có uy tín, Ando được cử làm chủ nhiệm HTX. Năm 1957, HTX này bị phá sản do một nhân viên phạm pháp, Ando phải bán hết tài sản của mình để trả nợ, chỉ giữ lại được ngôi nhà ở.

Khó khăn như vậy nhưng ông vẫn kiên trì thực hiện thí nghiệm mỳ ăn liền của mình, dùng nhà ở làm nơi chế thử.

Khó nhất là làm thế nào để sợi mỳ có thể nhanh chóng hút được nước sôi và chín ngay. Một lần để ý thấy bà vợ dùng dầu xào nấu thức ăn, ông nảy ra ý nghĩ mình cũng dùng dầu chiên cho sợi mỳ nở ra thì nó sẽ nhanh chóng hút nước. 
 


Nói dễ làm khó, Ando thí nghiệm hàng trăm lần mới thành công. Để sợi mỳ có vị ngon, ông ngâm nó vào loại xúp nấu từ xương bò hoặc xương gà, rồi xấy khô.

Sau nhiều lần thất bại, cuối cùng ngày 25/8/1958, Ando sản xuất thành công lô mỳ ăn liền vị thịt gà đầu tiên mang nhãn hiệu Ramen, thường gọi là Chikin (nói nhái tiếng Anh chicken) Ramen.

Loại thực phẩm này không cần đun nấu, chỉ cần cho vào bát, rót nước sôi vào đậy kín, để một lúc là ăn được ngay, rất tiện cho người Nhật thời buổi khó khăn bấy giờ; vì thế bán rất chạy. Hồi ấy, nước Nhật đang nhanh chóng công nghiệp hóa, ai nấy đều thiếu thời gian, do đó thực phẩm ăn liền ngày càng được tiêu thụ nhiều.

Để sản xuất với quy mô lớn, tháng 12 năm ấy, Ando mở rộng công ty Thực phẩm Nissin Food Products Co. Thật may cho ông, khi đang thiếu vốn thì năm sau, hãng Mitsubishi, một tập đoàn công nghiệp khổng lồ ở Nhật nhảy vào hỗ trợ quảng bá món ăn nhanh này, giúp cho mì Ramen mau chóng tăng sản lượng nhiều lần trong một nước Nhật đang nhanh chóng công nghiệp hóa.

Công nghệ chiên dầu của Ando về sau còn được áp dụng cho nhiều loại thức phẩm khác, nhờ thế mà ngày nay trên thị trường có bán đủ thứ trái cây chiên ngon miệng. 
 

 
Một doanh nhân chân chính

Mỳ ăn liền vị thịt gà đầu tiên mang nhãn hiệu Ramen. Thấy mỳ ăn liền bán chạy như tôm tươi, có người tìm cách làm nhái sản phẩm Ramen. Vì họ làm ẩu nên có người ăn mỳ nhãn hiệu Ramen bị ngộ độc.

Để giữ uy tín sản phẩm của mình, Ando chỉ còn cách làm đơn xin đăng ký thương hiệu và bằng sáng chế. Năm 1962, công ty ông được chính thức đăng ký nhãn hiệu sản phẩm và được cấp bằng sáng chế mỳ ăn liền; sau đó Ando gửi công văn cảnh cáo các công ty làm nhái sản phẩm của ông.

Nhưng đến năm 1964, Ando lại có một cử chỉ hào hiệp là chấm dứt độc quyền sản xuất mỳ ăn liền, thành lập Hội Công nghiệp Mỳ sợi Nhật Bản và công khai sáng chế của mình, chuyển nhượng công nghệ cho các công ty khác, để họ cùng được hưởng lợi.

Ông bắt đầu nghĩ rộng hơn, tới chuyện bán sản phẩm ra nước ngoài. Trong chuyến thăm dò thị trường Mỹ năm 1966, Ando quan sát thấy người Mỹ khi ăn thì dùng thìa nĩa và đĩa chứ không dùng đũa và bát như người Nhật.

Ông nảy ra ý định đóng gói mỳ ăn liền vào trong những chiếc cốc to bằng giấy dày không thấm nước, đổ nước sôi vào một lúc là ăn được, như thế dù không có bát nhưng vẫn ăn được mỳ sợi.



Năm 1970, Nissin mở chi nhánh đầu tiên tại Mỹ. Ngày 18/9/1971, Mỳ ăn liền Nissin đựng trong cốc (Cup Noodle) lần đầu tiên xuất hiện trên thế giới. Sản phẩm của Nissin bắt đầu chiếm lĩnh thị trường bên ngoài Nhật Bản, đem lại doanh thu xuất khẩu rất khả quan cho nước Nhật đang cần ngoại tệ để phát triển kinh tế.

Từ năm 1963, công ty Nissin niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo và Osaka, qua đó vốn đầu tư của thiên hạ đổ vào công ty này khiến cho sản lượng mỳ ăn liền tăng lên nhanh chóng, thỏa mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Năm 2005 toàn thế giới đã tiêu thụ 85,7 tỉ gói mì ăn liền, bình quân mỗi người 12 gói, trong đó Nissin chiếm thị phần lớn nhất, với 10 tỉ gói. Tổng giá trị sản lượng mỳ ăn liền toàn thế giới năm 2003 lên tới 14 tỷ USD, thực sự là một sản phẩm quan trọng ! Công ty Nissin hiện có vốn 3 tỷ USD với 29 chi nhánh tại 11 nước. 
 


Năm 1999, Momofuku Ando lập Nhà Bảo tàng Mỳ Ramen mang tên ông ở Ikeda thuộc quận Osaka (Momofuku Ando Instant Ramen Museum). Trong 6 năm rưỡi đã có cả thảy hơn một triệu người thăm bảo tàng này; điều đó đủ thấy thiên hạ coi trọng sáng chế mỳ ăn liền của Ando như thế nào.

Năm 2005, công ty Nissin còn cung cấp mì ăn liền cho nhà du hành vũ trụ người Nhật Soichi Noguchi trong chuyến bay trên tàu con thoi Mỹ Discovery lên Trạm Vũ trụ quốc tế ISS.

Sau khi đưa con trai thứ hai là Koki Ando lên vị trí chủ tịch công ty Nissin, tháng 6 năm 2005, ở tuổi 95, Momofuku Ando quyết định về hưu, chỉ còn giữ chức chủ tịch danh dự của Nissin. Ông còn dự tính triệu tập một hội nghị quốc tế về mỳ ăn liền tại Osaka vào năm 2008 nhưng không kịp.

Ngày 5/1/2007, Momofuku Ando qua đời tại Osaka vì một cơn nhồi máu cơ tim, hưởng thọ 96 tuổi. Nghe nói cho tới hôm ấy ông hãy còn ăn món Chikin Ramen của mình như thường lệ hàng ngày bao năm qua.

Mỳ ăn liền ở Việt Nam



"Hòa bình sẽ đến với thế giới khi tất cả mọi người có đủ đồ ăn thức uống", ông Ando từng nói"


Từ đầu thập niên 70 thế kỷ XX, các nhà tư sản người Hoa ở Sài Gòn bắt đầu sản xuất mì ăn liền theo công nghệ của Nissin.

Còn nhớ sau ngày thống nhất đất nước, dịp Quốc khánh năm 1975 công nhân viên chức cơ quan, xí nghiệp ở Trung ương và Hà Nội đều được phân phối mỗi người hai gói mỳ Hai tôm chở từ Sài Gòn ra.

Còn nhớ, khi mở cái túi ni-lông xinh xinh thơm phức in hình hai con tôm mập ú đỏ au, ai nấy mừng rơn, coi như một đặc sản. Quả thế, ăn thấy ngon tuyệt. Cho tới giờ dù đã ăn biết bao loại mỳ rồi nhưng nhiều người vẫn thấy đều không ngon bằng mỳ Hai tôm. 
 
 
Phải chăng đó chỉ là cảm giác sai lầm, vì năm 1975 có gì ngon mà ăn đâu ? Nếu đó là cảm giác đúng, thì có lẽ các cơ quan hữu trách nên giám định lại chất lượng các loại mỳ ăn liền sản xuất ở ta hiện nay.

Theo số liệu của Bộ Công nghiệp, năm 2005 tổng sản lượng các loại mì, cháo, phở ăn liền do khoảng 40 công ty (kể cả liên doanh nước ngoài) sản xuất tại Việt Nam lên đến 2,5 tỉ gói! Mỳ ăn liền nước ta còn được xuất khẩu đi nhiều nơi.

Một số doanh nhân người Việt ở Nga và Đông Âu đã giàu lên nhanh chóng trở thành triệu phú đô-la nhờ kịp thời tổ chức sản xuất mỳ ăn liền khi các nước này chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Công lao của ông Momofuku Ando như thế thật to lớn và ông thực sự là một doanh nhân có tầm nhìn xa và đáng khâm phục.

Kyara-ben” - sự cầu kỳ điên cuồng của người Nhật

Dành cho những ai vẫn chưa biết đến khái niệm “Kyara-ben”, nó là một loại bento (cơm hộp) được sắp xếp cẩn thận, trang trí như những nhân vật hoạt hình hoặc truyện tranh và thỉnh thoảng là cả người thật.


Rất nhiều bà mẹ người Nhật làm “Kyara-ben” cho con cái của họ và đôi khi họ làm thế chỉ vì sở thích.

Dưới đây là “Kyara-ben” đã giành chiến thắng ở cuộc thi mô phỏng theo nhân vật, được Sanrio tổ chức năm ngoái. Đây không chỉ là cơm hộp nữa mà chính là nghệ thuật.


 


 

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2010

[File] ぎおんごぎたいご - Tài liệu giải thích bằng tiếng Việt

Gửi mọi người bài tổng hợp giải thích các từ tượng thanh và tượng hình trong tiếng Nhật dựa theo sách ぎおんごぎたいご đây:



Download tại đây.

Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2010

石間先生のお誕生日と送別会。と伴に、カンさんとks1の送別会です。


KS1のメンバー発表した。

パーティー中。

眼鏡をかけている人と写真を撮った。

石間先生は機械の人と写真を撮った。

全員。

Chủ Nhật, 13 tháng 6, 2010

Sơ lược quá trình tìm việc làm ở Nhật

Có 2 loại tuyển người là : 新卒採用 shinsotsu saiyou – dành cho sinh viên sắp tốt nghiệp、và 中途採用 chuuto saiyou – dành cho những người đã tốt nghiệp hoặc đã có kinh nghiệm việc làm.
Trong bài viết này mình sẽ tổng hợp lại quá trình xin việc làm ở Nhật dành cho các bạn sinh viện đang học ở Nhật (新卒採用). Trong một số bài tiếp theo,  mình sẽ đi vào việc giới thiệu nội dung chi tiết hơn.

1) Tại sao lại tìm việc ở Nhật

Câu trả lời thì dĩ nhiên là phục thuộc vào bạn, vào kết hoạch tương lai của chính bạn. Vì vậy trước khi đi tìm việc ở  Nhật bạn nên suy nghĩ kĩ về điều này.

Quá trình tìm việc ở Nhật là cả một quá trình kéo dài (tới hơn 1 năm trời) và tốn khá nhiều công sức, thậm chí là mệt mỏi. Khác với ở Việt nam, các công ty bắt đầu rục rịch quá trình tuyển dụng cho năm tiếp theo, khoảng hơn 1 năm trước khi sinh viên tốt nghiệp. Vì vậy muốn tìm được việc ưng ý bạn phải bắt đầu tìm việc trước khi tốt nghiệp khoảng 2 năm.

Quá trình tìm việc cũng là quá trình nhìn lai chính bản thân mình, cũng là dịp bạn có cơ hội để tìm hiểu về những công việc  trong các ngành nghề khác, được tham quan công ty hay tham dự các hội chợ việc làm lớn. Bạn nên nhớ là chỉ còn khi đi học, bạn mới có cơ hội này, khi đi làm rồi thì bạn sẽ không còn thời gian hay cơ hội tốt để tìm hiểu như thế này đâu.

Để tìm được công việc như ý, bạn nên bắt đầu quá trình tìm việc sớm.

2) Tổng hợp quá trình xin việc (ở đây mình lấy ví dụ nếu bạn tốt nghiệp tháng 3 năm 2012)
Tháng 5/2010: Bắt đầu suy nghĩ về công việc và kế hoạch tương lai của bạn. Tiếng Nhật gọi là「自己分析」jiko bunseki, tức là tự phân tích bản thân.

Tháng 6: Chọn công ty đi thực tập và chuẩn bị hồ sơ để xin đi thực tập vào mùa hè.
Tháng 7: Thi tuyển chọn thực tập
Tháng 8: Đi thực tập, không quên việc tiếp tục phân tích bản thân (xem mình có hợp với công việc đó không,…)
Tháng 9: 「業界研究」- nghiên cứu, tìm hiểu các ngành nghề, 「筆記試験対策」-  bắt đầu học, làm quen với các bài thi viết tuyển dụng SPI, Web test.
Tháng 10: Đăng kí tài khoản (miễn phí) trên các trang tuyển dụng. Từ các trang web này bạn có thể tìm hiểu thông tin về các công ty và thông tin tuyển dụng của công ty đó, hay đăng kí để tham gia các hội chợ việc làm do trang tuyển dụng đó tiến hành. Nhiều công ty cũng cho phép bạn pre-entry(プリエントリー) từ các trang tuyển dụng.

Tham gia các buổi hướng dẫn tìm việc của trường nơi bạn học.
OB-OG訪問 – Đi gặp những người đã tốt nghiệp trường bạn và đang đi làm ở các công ty bạn đang muốn tìm hiểu thêm.

Bắt đầu tìm hiểu cách viết ES (entry-sheet).
Tháng 11:  Tiếp tục tham gia các hội chợ việc làm, hay buổi giới thiệu công ty (会社説明会) do chính công ty đó tổ chức. Việc gặp gỡ OB/OG sẽ giúp bạn khá nhiều trong việc hiểu rõ hơn công ty đó, và giúp ích cho việc tự phân tích bản  thân.
Các công ty nước ngoài ở Nhật (外資系企業) bắt đầu quá trình tuyển dụng.
Tháng 12: Tiếp tục các công việc ở trên, đến lúc này bạn nên kết thúc xong việc tự phân tích bản thân.
Tháng 1/2011: Tiếp tục tham gia vào buổi giới thiệu của các công ty. Một số công ty bắt đầu nhận ES, thi viết và phỏng vấn.
Tháng 2: Cơ hội cuối cùng cho bạn đăng kí tham gia vào buổi giới thiệu của các công ty. Bạn nên lên danh sách các công ty mình muốn vào theo thứ tự ưu tiên.
Tháng 3: Tham gia buổi giới thiệu của các công ty, nộp ES, thi viết, phỏng vấn.
Tháng 4: Phỏng vấn các vòng cuối và nếu bạn thành công thì bạn sẽ nhận được naitei (内定) – tức là sẽ được nhận vào công ty đó.

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2010

2010.05.28: Tiễn Duy-san lên đường


Đầu tiên, thay mặt tập thể lớp KS2 chúc Duy lên đường sang Nhât làm việc bình an, hãy cố gắng học tập và làm việc thật tốt.

Chúng ta đã quen nhau được 10 tháng. Một khoảng thời gian không dài nhưng đủ để chia sẽ niềm vui trong những lần họp lớp, nói cho nhau nghe những nỗi niềm tâm sự để ngày thêm thân thiết. Và khoảng thời gian đó cũng đủ để chúng ta hiểu rõ những hoài bão, khát vọng của nhau, hỗ trợ và giúp đỡ cùng nhau tiến tới.

Giờ thì khát vọng và hoài bão của Duy đã sắp thành hiện thực. Con đường đi đến xứ sở mặt trời mọc để tiếp thu những kiến thức và kĩ thuật tiên tiến nhất đang dang tay rộng cửa đón Duy. Nhưng những khởi đầu mới, niềm vui mới cũng như đầy cam cam go, thử thách mới vẫn còn đang ở phía trước.

Dù rằng người ở lại luôn là nguời buồn nhất, nhưng mọi người cảm thấy tự hào và chúng mừng Duy vì những điều Duy đã đạt được và sẽ đạt được.

Chúc Duy thượng lộ bình an. Bằng tài năng và cố gắng của mình, chúc Duy sớm đạt được những ước mơ của mình, hãy chứng tỏ cho người Nhật thấy bản lĩnh và đẳng cấp của kỹ sư Việt Nam và hãy trở về trong sự vẻ vang và thành công nhé, bạn tôi.

Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2010

Ebooks nâng cao kỹ năng sử dụng AutoCAD

Hầu hết anh em dân kỹ thuật chúng ta không ai là không biết đến AutoCAD và không biết sử dụng AutoCAD. Chúng ta được làm quen với AutoCAD (hay gọi tắt là ACAD ) từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, qua các môn học như kiến trúc, vẽ kỹ thuật ( theo mình biết thì phải tới năm thứ 3 các bạn mới được học và được vẽ máy ) hay qua các đồ án môn học. Một số trường cao đẳng và trung cấp đã đưa vào chương trình giảng dạy  song đó mới chỉ là cái cơ bản, khi ra trường đi làm các bạn được tiếp xúc nhiều hơn, sử dụng thành thạo hơn nhưng hầu hết các bạn mới chỉ biết thêm một số lệnh, một số mẹo  nhỏ trong quá trình sử dụng ACAD…còn cách bố trí bản vẽ như thế nào cho phù hợp, cách lập trình hay viết một chương trình nhỏ ( như các lệnh tắt, list cad, thống kê thép ….) chạy trong cad thì mình dám chắc rằng chưa bạn nào có thể làm được nếu không có sự tìm tòi “khổ nhọc” qua một quá trình sử dụng dày dạn.
Hôm nay mình xin được giới thiệu với các ban cuốn Ebooks của của tác giả Trần An Bình. Cuốn Ebooks sẽ hướng dẫn cho bạn biết cách bố cục, trình bày bản vẽ một cách chuyên nghiệp, biết cách làm chủ môi trường vẽ của mình. Mình chắc chắn rằng sau khi bạn đọc và thực hành theo cuốn sách này một cách nghiêm túc, trình độ và khả năng thao tác, làm việc với AutoCAD của bạn sẽ tiến bộ hơn rất nhiều đấy. number one

Bố cục cuốn EBOOKS gồm các phần sau :

Chương 1 : THIẾT LẬP MÔI TRƯỜNG BẢN VẼ
I.     Quy định về bản vẽ.
1.  Các thông tin có được từ bản vẽ
2.  Các không gian trong CAD
3.  ‎Ý nghĩa của việc thiết lập môi trường bản vẽ
4.  Một số quy định chung
4.1.   Khung và tỷ lệ bản vẽ
4.2.   Quy định về đường nét và cỡ chữ
II.    Thiết lập môi trường vẽ.
1.  Text style.
2.  Layer.
3.  Dimesion Style.
4.  Hatch.
5.  Lệnh LineType.
6.  Block và Thuộc tính của Block.
6.1.   Block
6.2.   Thuộc tính của Block
6.3.   Quản lý các block.
7.  Ghi các thiết lập môi trường bản vẽ thành TemPlate.
8.  Các tùy chọn trong menu Option
III.  Giới thiệu Express Tools.
1.1.2.                                                                                                                                                                                                                                                                                            Chương 2 : LAYOUT VÀ IN ẤN
I.     Làm việc với Layout
1.  Paper Space
2.  Các thao tác trên Viewport của Paper Space
2.1.   Tạo các Viewport
2.2.   Cắt xén đường bao Viewport
2.3.   Tỷ lệ trong từng Viewport
2.4.   Layer trong từng Viewport
2.5.   Ẩn hiện viewport
2.6.   Ẩn hiện đường bao viewport
2.7.   Scale LineType
2.8.   Các hiệu chỉnh khác đối với Viewport
3.  Các chú ý khi in nhiều tỉ lệ trong một bản vẽ
II.    Điều khiển in ấn.
1.  Khai báo thiết bị in.
2.  In ra file *.PLT
1.1.3.                                                                                                                                                                                                                                                                                            Chương 3 : LÀM VIỆC VỚI DỮ LIỆU
I.     Tham khảo ngoài
1.  Giới thiệu về tham khảo ngoài.
2.  Chèn một xref vào bản vẽ
3.  Mở một xref từ bản vẽ chính
4.  Hiệu chỉnh xref từ bản vẽ chính.
4.1.   Lệnh Refedit (Reference Edit).
4.2.   Thêm, bỏ bớt các đối tượng khỏi working set (Lệnh refset).
4.3.   Lệnh refclose
4.4.   Một số biến hệ thống liên quan đến xref.
5.  Điều khiển sự hiển thị của một xref.
5.1.   Xref và các thành phần hiển phụ thuộc.
5.2.   Xref và lớp.
5.3.   Lệnh Xbin.
5.4.   Tham chiểu vòng.
5.5.   Xén các xref.
5.6.   Tăng tốc độ hiển thị của các xref lớn.
6.  Quản lý xref
6.1.   Đường dẫn của các xref.
6.2.   Xref notification
6.3.   AutoCAD DesignCenter.
6.4.   File biên bản (log) của xref.
II.    Làm việc với dữ liệu ngoài (Working with External Database)
1.  Sơ lược về dữ liệu ngoài trong AutoCAD.
2.  Các chuẩn bị cho việc kết nối cơ sở dữ liệu.
3.  Định cấu hình dữ liệu cho ODBC.
4.  Định cấu hình dữ liệu trong AutoCAD.
5.  Chình sửa dữ liệu trong AutoCAD
6.  Tạo các mẫu kết nối.
7.  Tạo, hiệu chỉnh và xóa các kết nối.
8.  Quan sát các kết nối.
9.  Tạo mẫu nhãn.
10.  Tạo nhãn.
11. Sử dụng query để truy tìm dữ liệu
11.1. Sử dụng Quick Query
11.2. Sử dụng Range Query
11.3. Sử dụng Range Query
11.4. Sử dụng Link Select
III.  Làm việc với Raster Image
1.  Tổng quan
2.  Chèn ảnh (inserting images
3.  Quản l‎ý hình ảnh (Managing images)
4.  Cắt xén ảnh (Clipping images)
5.  Điều khiển sự hiển thị (Controlling image display)
5.1.   Điều khiển hiển thị
5.2.   Chất lượng ảnh (Image quality)
5.3.   Image transparency
5.4.   Bật tắt đường bao của ảnh (Image frame)
IV.  Pasting, Linking, and Embedding Objects
1.  Embedding objects into AutoCAD
2.  Linking data
3.  Pasting data into AutoCAD
1.1.4.                                                                                                                                                                                                                                                                                            Chương 4 : TÙY BIẾN TRONG AUTOCAD
I.     Các đối tượng shape.
1.  Khái niệm về Shape.
2.  Cách mô tả shape trong file .SHP.
2.1.   Vector Length and Direction Code (mã vector).
2.2.   Special Codes (mã đặc biệt)
II.    Tạo font chữ
1.  Tạo font chữ SHX.
2.  Tạo big font.
3.  Tạo big font từ file mở rộng.
III.  Tạo các dạng đường (file linetype)
1.  Khái niệm và phân loại dạng đường.
2.  Tạo các dạng đường đơn giản.
2.1.   Dùng creat trong lệnh -linetype.
2.2.   Tạo linetype bằng cách soạn thảo trực tiếp trong .LIN
IV.  Dạng đường phức chứa đối tượng shape
1.  Dạng đường phức có chứa đối tượng chữ.
V.    Tạo các mẫu mặt cắt.
1.  File mẫu mặt cắt.
2.  Tạo mẫu mặt cắt đơn giản.
3.  Tạo các mẫu mặt cắt phức tạp.
VI.  Menu.
1.  Menu và file menu.
1.1.   Các loại menu
1.2.   Các loại file menu
1.3.   Tải, gỡ bỏ một menu
2.  Tùy biến một menu
2.1.   Cấu trúc một file menu
2.2.   Menu Macro
2.3.   Pull-down Menu
2.3.1.   Section của Pull-down menu
2.3.2.   Tiêu đề của pull-down menu
2.3.3.   Tham chiếu đến pulldown menu
2.3.4.   Chèn và loại bỏ Pull-down menu trên menubar
2.4.   Shortcut menu.
2.5.   Buttons  menu và auxiliary menu.
2.5.1.   Section của Buttons menu và auxiliary menu
2.5.2.   Tạo các AUX menu.
2.5.3.   Menu swaping.
2.6.   Image Tile menus
2.6.1.   Section của Image menu
2.6.2.   Mô tả mục chọn của menu hình ảnh
2.6.3.   Gọi hiển thị các menu hình ảnh
2.6.4.   Slide và thư viện slide.
2.7.   Menu màn hình.
2.7.1.   Section của menu hình ảnh.
2.8.   Chuỗi chú thích ở thanh trạng thái.
2.8.1.   Section của đoạn mô tả chuỗi chú thích.
2.8.2.   Mô tả chuỗi chú thích.
2.9.   Tạo các phím tắt.
2.9.1.   Section của đoạn mô tả các phím tắt
2.9.2.   Tạo phím tắt
VII. Toolbar
1.  cách tạo toolbars bằng cách dùng lệnh Toolbar
1.1.   Tạo Toolbar
1.2.   Tạo nút lệnh mới
1.3.   Sửa nút lệnh
1.4.   Tạo một Flyout
2.  Cách tạo toolbars bằng cách soạn thảo trong file *.mnu
2.1.   Dòng mô tả tổng quát thanh công cụ
2.2.   Dòng mô tả loại nút lệnh Button
2.3.   Dòng mô tả loại nút lệnh Flyout.
2.4.   Dong mô tả nút lệnh Control.
Mình xin gửi lời cảm ơn tới bác Thành Hiếu ở tuvanxd.net đã chia sẻ tài liệu quý giá này, trong suốt thời gian mình tham khảo thấy rất hay và bổ ích nên quyết định đưa lên để chia sẻ cùng các bạn. Chúc các bạn rèn luyện được kỹ năng thao tác của mình với AutoCAD thật tốt để đi …kiếm money nhé.. ehe
Các bạn có thể ttải cuốn Ebooks này tại đây
« Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn » Trang chủ
Đăng ký: Bài đăng (Atom)

Từ điển trực tuyến

  • 1 Tu dien
  • VNDict.Net
  • Jpanese DIctionary
  • TraTu.VN

Học tiếng Nhật

  • Học Tiếng Nhật Online
  • Japanese Pod101
  • Learn Japanese by Video
  • MLC Meguro Language Center
  • Ngữ pháp Tiếng Nhật
  • NHK World
  • Reading Materials

Test Online

  • Bộ đề năng lực Nhật Ngữ
  • Japanese Test Online Test
  • Online Japanese Tests
© 2010. Design by TechZone Solutions

Subscribe To

Bài đăng
Atom
Bài đăng
Tất cả nhận xét
Atom
Tất cả nhận xét

Blog Archive

  • ▼  2010 (46)
    • ▼  tháng 8 (3)
      • Karaoke - CHANGE THE WORLD
      • Akio Nitori & ước mơ làm giàu người Nhật
      • Tháp Tokyo Sky Tree- công trình cao nhất Nhật Bản
    • ►  tháng 7 (4)
      • Văn hóa của người Nhật - "Xin Lỗi"
      • Momofuku Ando - Cha đẻ của mỳ ăn liền
      • Kyara-ben” - sự cầu kỳ điên cuồng của người Nhật
      • [File] ぎおんごぎたいご - Tài liệu giải thích bằng tiếng ...
    • ►  tháng 6 (2)
      • 石間先生のお誕生日と送別会。と伴に、カンさんとks1の送別会です。
      • Sơ lược quá trình tìm việc làm ở Nhật
    • ►  tháng 5 (8)
      • 2010.05.28: Tiễn Duy-san lên đường
      • Ebooks nâng cao kỹ năng sử dụng AutoCAD
    • ►  tháng 4 (5)
    • ►  tháng 3 (7)
    • ►  tháng 2 (7)
    • ►  tháng 1 (10)
  • ►  2009 (98)
    • ►  tháng 12 (10)
    • ►  tháng 11 (13)
    • ►  tháng 10 (10)
    • ►  tháng 9 (12)
    • ►  tháng 8 (32)
    • ►  tháng 7 (21)

Bloggroll

  • CLB Tonichi
  • Hội sinh viên Đông Du
  • Ichi News
  • Japanest
  • Năng suất chất lượng Việt Nam
  • Trái tim Việt Nam Online
  • VYSA

Giải Trí

  • Viet Nam Festival 2009
  • Watch Japanese Drama Online